Quán Tâm (Cittānupassanā)

Kathañca pana, bhikkhave, bhikkhu citte cittānupassī viharati? Idha, bhikkhave, bhikkhu sarāgaṃ vā cittaṃ ‘Sarāgaṃ citta’nti pajānāti, vītarāgaṃ vā cittaṃ ‘Vītarāgaṃ citta’nti pajānāti. Sadosaṃ vā cittaṃ ‘Sadosaṃ citta’nti pajānāti, vītadosaṃ vā cittaṃ ‘Vītadosaṃ citta’nti pajānāti. Samohaṃ vā cittaṃ ‘Samohaṃ citta’nti pajānāti, vītamohaṃ vā cittaṃ ‘Vītamohaṃ citta’nti pajānāti. Saṅkhittaṃ vā cittaṃ ‘Saṅkhittaṃ citta’nti pajānāti, vikkhittaṃ vā cittaṃ ‘Vikkhittaṃ citta’nti pajānāti. Mahaggataṃ vā cittaṃ ‘Mahaggataṃ citta’nti pajānāti, amahaggataṃ vā cittaṃ ‘Amahaggataṃ citta’nti pajānāti. Sa-uttaraṃ vā cittaṃ ‘Sa-uttaraṃ citta’nti pajānāti, anuttaraṃ vā cittaṃ ‘Anuttaraṃ citta’nti pajānāti. Samāhitaṃ vā cittaṃ ‘Samāhitaṃ citta’nti pajānāti, asamāhitaṃ vā cittaṃ ‘Asamāhitaṃ citta’nti pajānāti. Vimuttaṃ vā cittaṃ ‘Vimuttaṃ citta’nti pajānāti. Avimuttaṃ vā cittaṃ ‘Avimuttaṃ citta’nti pajānāti.

Này các Tỷ kheo, như thế nào Tỷ kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ kheo, ở đây vị Tỷ kheo: “Với tâm có tham1, biết rằng tâm có tham”; hay “Với tâm không tham, biết rằng tâm không tham”; hay “Với tâm có sân2, biết rằng tâm có sân”; hay “Với tâm không sân, biết rằng tâm không sân”; hay “Với tâm có si3, biết rằng tâm có si”; hay “Với tâm không si, biết rằng tâm không si”; hay “Với tâm thâu nhiếp4, biết rằng tâm được thâu nhiếp”; hay “Với tâm tán loạn5, biết rằng tâm bị tán loạn”; hay “Với tâm quảng đại6, biết rằng tâm được quảng đại”; hay “Với tâm không quảng đại7, biết rằng tâm không được quảng đại”; hay “Với tâm hữu hạn8, biết rằng tâm hữu hạn”; hay “Với tâm vô thượng, biết rằng tâm vô thượng”; hay “Với tâm có định9, biết rằng tâm có định”; hay “Với tâm không định, biết rằng tâm không định”; hay “Với tâm giải thoát10, biết rằng tâm có giải thoát”; hay “Với tâm không giải thoát, biết rằng tâm không giải thoát”.

Tóm lại, điều quan trọng là mọi cảm xúc, suy nghĩ hiện lên đều phải được nhận biết một cách khách quan, đúng như bản chất của chúng. Chúng ta cần duy trì chánh niệm để không bị cuốn theo bất kỳ suy nghĩ nào, dù là tích cực hay tiêu cực. Nếu hành giả kiên trì thực hành, tâm trí sẽ dần trở nên vui vẻ, hạnh phúc và thanh thản. Tuy nhiên, khi cảm thấy chậm tiến bộ, hành giả có thể nản lòng và mất động lực. Để tránh điều này, hãy luôn ghi nhận mọi suy nghĩ, cảm xúc (cả tích cực lẫn tiêu cực) ngay khi chúng xuất hiện. Theo đó, tâm trí sẽ duy trì được sự bình thản và quá trình thiền sẽ diễn ra ổn định hơn.

Iti ajjhattaṃ vā citte cittānupassī viharati, bahiddhā vā citte cittānupassī viharati, ajjhattabahiddhā vā citte cittānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati, vayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati, samudayavayadhammānupassī vā cittasmiṃ viharati, ‘Atthi citta’nti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati. Evampi kho, bhikkhave, bhikkhu citte cittānupassī viharati.

Như vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. “Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ kheo, như vậy vị Tỷ kheo sống quán tâm trên tâm.

Đoạn kinh này này phân biệt rõ ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’, ám chỉ thân thể của chính mình và của người khác. Nếu một người chưa phát triển được thần thông, họ chỉ có thể hiểu được tâm của người khác thông qua suy luận. Tuy nhiên, khi quán chiếu sâu sắc về các tâm trạng, người đó sẽ nhận ra rằng chúng sinh khởi rồi tan biến. Nhận thức của người đó dần trở nên vững chắc: các tâm tồn tại, nhưng chúng không phải là một chúng sinh, không phải là một cá nhân, không phải là nam hay nữ, không phải là một bản ngã hay bất cứ thứ gì thuộc về bản ngã. Người đó không còn xem các tâm là “tôi” hay “của tôi”, và do đó, không còn bám víu vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

Phần Quán Tâm đã hoàn tất. Cittānupassanā Niṭṭhitā.

Chú thích

  1. Sarāgaṃ = đam mê trong các dục. Tất cả các loại ý nghĩ tham lam: khao khát, tham lam, thèm muốn, ganh đua,…

  2. Sadosaṃ = sân, tức giận. Tất cả các loại suy nghĩ tức giận: ác ý, ác cảm, hận thù, thịnh nộ, khó chịu, bực bội, thất vọng, ghét bỏ,…

  3. Samohaṃ = ảo tưởng, ảo vọng. Tất cả các loại suy nghĩ ảo tưởng: lúng túng, tự phụ, kiêu ngạo, nghi hoặc, hoang mang,…

  4. Saṅkhittaṃ = đờ đẫn, trì hoãn, lười biếng, chán nản, bi quan…

  5. Vikkhittaṃ = mất tập trung, bồn chồn, kích động, phấn khích, hối tiếc, bối rối,…

  6. Mahāggata = cao cả, lớn mạnh, được nâng cao, như trong trạng thái nhập định (jhāna).

  7. Amahāggata = hạn chế, các tâm trạng thuộc về cõi dục.

  8. Sa-uttara = thấp kém, so với các tâm cao cả hơn.

  9. Samāhitaṃ = tập trung, cô đọng, không phân tán. Nhập định vào các tầng thiền.

  10. Vimuttaṃ = tự do, không còn phiền não.